Đề bài: Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau

Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau
I. Dàn ý Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau:
1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả Trần Tế Xương
- Giới thiệu bài thơ “Năm mới chúc nhau”
2. Thân đoạn:
a) Hoàn cảnh sáng tác:
- Đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, việc mua quan bán tước diễn ra thường xuyên khiến người tài như Tú Xương trở nên thất chí, chỉ đành dùng tài năng của mình để viết nên những áng thơ văn châm biếm, mỉa mai xã hội.
b) Nội dung:
- 8 câu thơ đầu:
+ Bước vào những câu thơ đầu tiên câu chúc mà giống câu chửi, đó là chế giễu mấy tên hợm hĩnh lố bịch ấy.
+ Tú Xương tham gia vào bài thơ với vị trí là kẻ thứ ba nghe chuyện, để xem quân giả tạo, thối nát chúc nhau sống lâu (4 câu đầu) "trăm tuổi bạc đầu" bằng một giọng tự sự đầy giễu cợt. Tú Xương còn hài hước tự xưng mình là "ông" xưng người là "thiên hạ", một giọng thơ rất đanh đá, thách thức hóa ra là cái bọn chúc nhau mau già, mau rụng răng.
+ Ông Tú còn thể hiện cái sự căm ghét thói đời mà tiền đặt lên trên tất cả, đến quan chức mà có tiền mua thì cũng xong (4 câu tiếp). Tú Xương nghe chúng nó chúc cái sang của bọn ngu dốt lại thích màu mè, được mua bằng những đồng tiền;
=> Nhà thơ phô bày cảnh trò hề chúc sang, những kẻ kém tâm hồn đến trí tuệ dù có đắp bao nhiêu phục trang lộng lẫy, hay mũ cánh chuồn úp đầu cũng chẳng khiến người ta nể nang. Đó là những kẻ thích làm sang, thích tự bôi vẽ cái vẻ sang trọng quyền quý hài hước lên khuôn mặt bại hoại của chính bản thân mình.
=> Câu thơ "Vừa chửi vừa la cũng đắt hàng" mang lại hả hê, phải bật cười bởi cái lũ kém sang ấy; chúng chỉ biết chửi, biết la như những kẻ đầu đường xó chợ.
- 12 câu thơ cuối:
+ Nhà thơ tiếp tục chế giễu mừng sự giàu (4 câu tiếp), mừng lắm con nhiều cháu (4 câu cuối). Sự độc đáo đoạn thơ thể hiện tiền bạc với ông Tú (cách gọi thân quen) thì cũng như "mớ" rau dưa, lộn xộn, để gà cũng ăn được.
+ Hình ảnh "sinh năm đẻ bảy" của mấy đám ô hợp sao cho cốt hết số tiền bẩn thỉu do bọn ông cha hám tiền của chúng làm ra. Riết rồi cái lũ sâu bọ ấy đông đúc quá, phố phường cũng chẳng kham nổi lại phải bồng bế nhau lên núi mà ở thôi, chứ nơi nào chứa cho hết cái lũ chỉ quen bịp bợm của người dân nghèo khó.
c) Nghệ thuật:
- Giọng điệu thơ vừa dí dỏm, hài hước vừa chế giễu châm biếm, đả kích sâu cay, vừa chua chát, xót xa.
- Kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và châm biếm.
- Cách sử dụng ngôn ngữ xứng đáng là bậc “thần thơ thánh chữ”, nghệ sĩ châm biếm bậc thầy
3. Kết đoạn:
- Khẳng định sức sống của bài thơ và tài năng của tác giả Tú Xương

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau
II. Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau:
1. Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau - mẫu số 1:
Trần Tế Xương hay còn gọi là Tú Xương, vốn là một người thông minh, sáng dạ nhưng khốn nỗi thi cử bao nhiêu lần cũng không đậu. Nguyên nhân bởi xã hội thời bới giờ đương buổi rối ren loạn lạc quá, cái tài năng của ông bị vùi dập bởi chế độ thuộc địa nửa phong kiến, bởi việc mua quan bán chức ầm ầm. Chính vì bất đắc chí trong việc học hành thi cử mà Trần Tế Xương thường trút hết nỗi niềm của mình vào thơ văn, thơ của ông không buồn mà là những tiếng cười mỉa mai châm biếm rất sâu cay, là cái roi mây quất vào mặt bọn cường quyền, thực dân những kể chẳng mấy ưa ông và ông cũng ngứa mắt bọn chúng. Dù chỉ được sống 37 năm ngắn ngủi của cuộc đời, lại sống trong cảnh nghèo khó, xã hội nhiễu nhương, nhưng Trần Tế Xương - một trí thức phong kiến đã có một cái nhìn rất chân thực về cuộc sống thời bấy giờ, thông qua những vần thơ trào phúng tưởng là chơi vui nhưng lại hóa hiện thực sâu sắc. Một trong số những bài thơ đó phải kể đến tác phẩm Năm mới chúc nhau.
Nhan đề thơ nghe có vẻ rất đỗi bình thường, năm mới thì những lời chúc tụng nhau vốn dĩ là chuyện rất nên làm, là những gì quen thuộc nhất khi dịp tết đến xuân về. Nhưng vào thơ của Tú Xương, cái lời chúc tết ấy lại có nhiều điều phải suy nghĩ và khi nghĩ ra rồi người ta mới thấy được cái tiếng cười châm biếm thật sâu cay của "bậc thần thơ thánh chữ" (theo lời Nguyễn Công Hoan). Những lời thơ như là tiếng chửi, tiếng mỉa mai những kẻ mà nhà thơ khinh ghét gọi là "nó". Đọc thơ người ta dễ dàng nhận ra sự mâu thuẫn hài hước giữa nội dung và hình thức, sao nghe câu chúc mà giống câu chửi quá, quả thực là nhà thơ đang chế giễu mấy tên hợm hĩnh lố bịch ấy.
“Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.”
Tú Xương tham gia vào bài thơ với vị trí là kẻ thứ ba nghe chuyện, ông rất từ tốn bình tĩnh "Lẳng lặng mà nghe", để xem cái quân giả tạo, thối nát ấy chúc nhau như thế nào, và rồi ông đưa lại vào thơ bằng một giọng tự sự đầy giễu cợt. Cớ sao đã chúc nhau "trăm tuổi bạc đầu" mà lại còn thêm chữ "râu" chi cho mất đi cái vẻ trang trọng mà thay vào đó là cái sự kém sang rành rành, bởi người ta chúc đầu bạc chứ chẳng ai chúc râu bạc bao giờ. Đã thế, Tú Xương còn hài hước chêm vào mấy câu tự xưng mình là "ông" xưng người là "thiên hạ", một giọng thơ rất đanh đá, lại có phần hơi thách thức. Thế hóa ra bọn "nó" già đến bạc cả râu, thì chắc răng cũng chẳng còn đâu nhỉ, Tú cứ buôn cối giã trầu thì chắc sớm mà giàu to thôi. Này thì cái bọn chúc nhau mau già, mau rụng răng, thích chí lắm.
Âý mới chỉ là những câu thơ mở đầu, Tú còn thể hiện cái sự căm ghét thói đời mà tiền đặt lên trên tất cả, đến quan chức mà có tiền mua thì cũng xong.
"Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
Đứa thì mua tước, đứa mua quan
Phen này ông quyết đi buôn lọng
Vừa chửi vừa la cũng đắt hàng."
Tú Xương nghe chúng nó chúc nhau sao sang quá, cái sang của bọn ngu dốt lại thích màu mè, chúng cứ tưởng có cái chức quan mua được bằng những đồng tiền bóng lộn ấy trong cái xã hội nửa nạc nửa mỡ này là "sang" lắm, ngon lắm. Nhưng chúng nào có biết được chúng chỉ như đang làm trò hề trong mắt Tú, những kẻ đã kém cỏi từ tâm hồn đến trí tuệ ấy thì cho dù có đắp bao nhiêu phục trang lộng lẫy, hay mũ cánh chuồn úp đầu cũng chẳng khiến người ta nể nang cho được. Bởi chúng chỉ giống như mấy con khỉ thích giả làm người bằng mấy bộ đồ đi vay đi mượn, hoặc đi mua được. Quả thực có mấy ai thèm, trừ lũ trưởng giả thích làm sang, thích tự bôi vẽ cái vẻ sang trọng quyền quý hài hước lên khuôn mặt bại hoại của chính bản thân mình. Câu thơ chốt hạ "Vừa chửi vừa la cũng đắt hàng" của Tú Xương thật khiến cho người đọc được hả hê, phải bật cười bởi cái lũ kém sang ấy nào có biết đến việc ăn nói điềm tĩnh tử tế của bậc nho gia, chúng chỉ biết chửi, biết la như những kẻ đầu đường xó chợ. Thật hài hước sâu cay quá. Ôi đã nhiều quan chức đến thế, thì Tú ta buôn lọng cũng khối tiền!
"Nó lại mừng nhau cái sự giàu
Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc
Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu.
Nó lại mừng nhau sự lắm con
Sinh năm đẻ bẩy được vuông tròn
Phố phường chật hẹp người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non."
Tú hết chế giễu bằng lối chúc sống lâu, sống sang thì lại quay ra chế giễu mấy cái mừng, nào là mừng sự giàu, mừng lắm con nhiều cháu. Tiền bạc mà vào miệng của Tú thì cũng như "mớ" rau dưa, lộn xộn, để gà cũng ăn được. Rồi thì con cháu nhà quan lại mà cũng "sinh năm đẻ bảy" chẳng khác mấy đám ô hợp. Ôi, theo cái dự đoán của Tú thì phen này chúng nó đẻ lắm chỉ để ăn sao cho cốt hết số tiền bẩn thỉu do bọn ông cha hám tiền của chúng làm ra. Riết rồi cái lũ sâu bọ ấy đông đúc quá, phố phường cũng chẳng kham nổi lại phải bồng bế nhau lên núi mà ở thôi, chứ nơi nào chứa cho hết cái lũ chỉ quen bịp bợm của người dân nghèo khó.
Đọc thơ của Tú Xương, người ta thấy hiện lên rõ mồn một cái hiện thực oái oăm, hài hước của lũ người nhố nhăng trong cái xã hội tạp nham đủ thứ người, thứ chuyện, tưởng như đùa. Qua đó, người ta cũng thấy được cái cảnh cơ cực, khổ sở của nhân dân thời bấy giờ, phải chịu sống dưới sự chèn ép của bọn người ô hợp, tức lắm, ghét lắm, mà không thể làm gì được. Tú Xương là người bản lĩnh, ông tuy bất đắc chí tại đường công danh nhưng thơ, văn của ông luôn đem lại một cái nhìn thật sâu sắc về hiện thực xã hội lúc đó, cũng phần nào xả được cái nỗi uất ức bị kìm kẹp dưới chế độ nửa phong kiến của nhân dân ta. Những tiếng cười chế giễu như thứ vũ khí đâm thẳng vào mặt bọn cầm quyền ngu si, mà chúng tuy cay cú cũng chẳng thể làm gì được.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau
2. Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau - mẫu số 2:
Trần Tế Xương là nhà thơ với ngòi bút châm biếm quyết liệt, dữ dội. Thơ của Tế Xương có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình. Bức tranh hiện thực trong thơ Tế Xương là một bức tranh xám xịt, tái hiện lại hiện thực thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến. Sử dụng giọng văn châm biếm sâu cay, thơ ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan làm tay sai cho giặc. Tiếng cười châm biếm ấy được tác giả đưa vào trong bài thơ nổi tiếng “Năm mới chúc nhau”. “Năm mới chúc nhau” qua đôi mắt Trần Tế Xương là những tiếng cười châm biếm chua cay, nực cười và toàn giả dối.
Bài thơ năm mới chúc nhau là những tiếng cười, những lời chế giễu, mang tính châm biếm sâu cay, thể hiện sự khinh ghét của nhà thơ trước bọn người tham lam của xã hội cũ. Tết là dịp đặc biệt đối với người Việt Nam, là nơi để mỗi con người đi xa trở về, là nơi gắn kết sự yêu thương. Tết là dịp ta trao cho nhau những lời chúc, lời mong ước một năm mới bình an thuận hòa. Nhưng đọc tác phẩm “năm mới chúc nhau” của Tế Xương ta lại thấy một hiện thực không phải như vậy
“Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu”
Năm mới, chúng ta thường trao cho nhau những lời chúc. Chúc nhau sống lâu trăm tuổi là một lời chúc đẹp. Thế nhưng, qua hai câu thơ trên ta lại có cảm nhận khác. Từ láy “lẳng lặng” kết hợp với từ “nó”, “đứa”. Ta nhận ra rằng đó là thái độ châm biếm của nhà thơ đối với bọn chúc. Chúc nhau trăm tuổi là câu chúc thường được con cháu chúc ông bà, thể hiện thái độ trang trọng, thành kính. Thế nhưng, ở đây Trần Thế Xương lại “chúc bạc đầu râu”, câu thơ như một tiếng cười, lời chế nhạo đầy khôi hài. Bởi người ta chỉ thường chúc nhau trăm tuổi bạc đầu chứ không ai chúc trăm tuổi bạc đầu râu. Chữ “râu” làm mất đi vẻ trang trọng, mang đến một tiếng cười chế nhạo đầy sâu sắc. Thái độ châm biếm của tác giả còn được biểu hiện rõ hơn qua những lời dự định đầy căn cứ của mình:
“Phen này ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu”
Trần Tế Xương đã tự nhận mình là “ông”, một cách xưng hô đầy trịnh trọng thể hiện thái độ của bậc trên. Cách xưng hô ấy khiến cho những kẻ nhố nhăng, tham lam bị xếp xuống hàng dưới “đứa”, “nó”. Câu thơ đã bộc lộ trực tiếp thái độ khinh rẻ của tác giả đối với bọn quan tham, vì quyền lợi mà bán dân, bán nước. Chẳng có gì tốt đẹp khi “lũ bạc đầu râu” không còn răng để nhai trầu. Trần Thế Xương một lần nữa thể hiện thái độ châm biếm, mỉa mai. Vẫn giọng điệu châm biếm thâm thúy, sâu cay nhà thơ tiếp tục thể hiện tiếng cười đầy mỉa mai bọn trưởng giả học làm sang.
“Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:
Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu?
Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:
Đứa thì mua tước, đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng”
Từ láy “lẳng lặng” tiếp tục được sử dụng trong câu thơ. Đó là thái độ khinh miệt, giọng điệu đầy châm biếm xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ. Khao khát được làm quan, được sống một cuộc sống giàu sang là một ước mơ chính đáng. Thế nhưng ở đây bọn quan lại là một thứ hàng hóa được bày ra để mua bán. Đồng tiền có thể mua được mọi chức vị trong xã hội, sẽ chẳng thể tìm ra được những người giỏi thật sự để đưa đất nước đi lên. Câu thơ “đứa thì mua tước, đứa mua quan” đã diễn tả trực tiếp thực trạng nhố nhăng của bọn quan vô học. Bao sự trơ tráo vô liêm sỉ của chúng đã bị Trần Tế Xương lột trần, vừa chửi vừa la cũng đắt hàng. Trần Tế Xương đã khiến cho người đọc được một phen hả hê, bật cười bởi lũ quan vô học ấy chỉ biết chửi, biết la như những kẻ đầu đường xó chợ. Câu thơ là tiếng cười châm biếm, hài hước mà sâu cay vô cùng.
“Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp, người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non”
Đó là thái độ mỉa mai giễu cợt về sự nhốn nháo của bọn người hợm của. Đọc những câu thơ trên, ta chỉ thấy buồn cười về một hiện thực nhố nhăng đầy lộn xộn của bọn quan trường. Qua những vần thơ trào phúng, ta càng thấm được tiếng cười đầy châm biếm của Trần Tế Xương. Tiếng cười ấy không chỉ “độc” mà còn “thâm”, xoáy sâu vào tâm trí một hiện thực xã hội thời kỳ đó. Nhà thơ không một chút e dè, kiêng nể mà đã mạnh miệng buông thẳng những tiếng chửi đầy ẩn ý, thâm độc dành cho chúng nó.
Tác giả đã sử dụng các phương thức biểu biểu cảm để làm rõ lên những tiếng chửi, lời chế nhạo, mỉa mai sâu cay của mình. Đó là tính chất châm biếm bật ra từ sự mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức chúc nhau mà thực ra là để chửi, là để thể hiện sự khinh ghét. Cùng với đó là giọng điệu thơ vừa dí dỏm, hài hước vừa chế giễu châm biếm đả kích sâu cay. Trần Thế Xương còn sử dụng cách diễn đạt theo kiểu ngoa ngôn kết hợp với các từ ngữ xưng hô hết sức nghệ thuật. Tất cả thể hiện cho phong cách nghệ thuật trào phúng sắc sảo của bậc thầy Trần Tế Xương.
“Năm mới chúc nhau” là bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ Trần Tế Xương. Thơ viết về những lời chúc tết nhưng thực ra lại là tiếng chửi, là tiếng cười mỉa mai. Qua tác phẩm Trần Tế Xương đã tái hiện lại hiện thực xã hội đen tối, chế giễu khinh ghét lối sống của bọn giàu sang, của bọn quan trường. Qua tác phẩm Tế Xương mang đến một tiếng chuông cảnh tỉnh, phê phán. Nhà thơ thể hiện niềm khao khát được sống trong một xã hội tốt đẹp.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau
3. Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Năm mới chúc nhau - mẫu số 3:
Nói đến Trần Tế Xương, người ta không thể không nghĩ tới ngòi bút châm biếm quyết liệt, dữ dội như những làn roi vun vút quất thăng vào mặt kẻ thù của ông. Sinh ra, lớn lên và được trực tiếp chứng kiến thời buổi nhiễu nhương, nhan nhản lũ người nhí nhố, ngang nhiên làm những việc bất chính ngay giữa thanh thiên bạch nhật. Thế mà chẳng ai làm gì được. Dường như không kìm được nỗi căm uất và khinh ghét đến tột cùng. Tú Xương ném thẳng tiếng cười châm biếm chua cay vào lũ người nọ ngay vào dịp Tết đón xuân về bằng bài thơ nổi tiếng mang tên “Năm mới chúc nhau”.
Đối với người Việt Nam, mồi khi năm hết, Tết về, xuân đến là một dịp để người ta chúc cho nhau những điều tốt đẹp nhất. Năm mới chúc nhau vì thế đã trở thành một nét phong tục đẹp từ lâu đời của nhân dân ta. Cứ như nhan đề bài thơ thì phải hiểu là thế. Nhưng đọc vào thì hoàn toàn không phải vậy. Nội dung bài thơ lại là những tiếng chửi, những lời chế giễu sâu cay. Tính chất châm biếm bật ra từ sự mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức chúc nhau mà thực ra là để chửi, là để thể hiện sự khinh ghét. Hệt như cụ Tam Nguyên Yên Đổ khi hỏi thăm quan Tuần mất cướp. Hỏi thăm mà thực ra là đè chế giễu, để thể hiện sự khinh bỉ và để cho bo lòng căm ghét. Nhà thơ đặt Vị Xuyên đã chế giễu bọn người hợm hĩnh ấy bằng việc “tường thuật” lại cho mọi người nghe những lời chúng chúc nhau:
“Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.”
Chúc nhau sống lâu trăm tuổi là một lời chúc đẹp. Nội dung lời chúc khổ đầu là thế, nhưng dưới con mắt Tú Xương lại không phải thế. Ta nhận ra ngay thái độ châm biếm của nhà thơ khi ông gọi những người chúc là “nó" là “đứa”, thêm vào chữ râu (bạc đầu râu), câu thơ ấy ngay lập tức hóa thành lời chế nhạo. Thái độ châm biếm còn biểu lộ rõ hơn ở lời toan tính, dự định của nhà thơ “Phen này ông quyết đi buôn cối - Thiên hạ bao nhiêu đứa : “giã trầu”. Nào có hay ho, trang trọng, đẹp tốt gì một lũ bạc đầu râu và răng không còn nữa. Răng không còn nên phải dùng cối giã trầu, vẫn là cái giọng điệu ấy, nhà thơ tiếp tục mỉa mai bọn trưởng giả học làm sang:
“Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
Đứa thì mua tước, đứa mua quan
Phen này ông quyết đi buôn lọng
Vừa chửi vừa la cũng đắt hàng.”
Ở bất kì thời kì lịch sử nào cũng vậy, khi xã hội đã trở nên mục ruồng, giai cấp thống trị sa đọa, thối nát... thì việc mua quan bán tước là chuyện hiển nhiên, không có gì khó hiểu. Thời Tú Xương là một thời như thế. Con người ta sống sao cho sang, cho đẹp là một ao ước, một khát khao lành mạnh. Tuy nhiên làm nên cái sang, cái đẹp ấy đâu phải là do địa vị, hàm đố, đo tước, đo quan. Tước hay quan cũng chỉ là bề ngoài như quần áo vậy. Cái bề ngoài ấy chỉ trở nên có nghĩa khi bên trong con người có một tâm hồn và trí tuệ đẹp đẽ, lành mạnh. “Y phục phải xứng kỳ đức” là thế. Tú Xương căm uất cái thói trưởng giả học làm sang của bọn người nhố nhăng này. Thì ra quan, tước của chúng chẳng qua là đo mua, đo bán, một thứ bộ dạng đi vay, đi mượn chứ nói gì đến những phẩm chất và tư cách bên trong. Câu thơ lặp lại mấy chữ "đứa thì mua tước, đứa mua quan” đã vẽ nên cảnh tượng nhốn nháo, đua đòi kệch cỡm của bọn vô học chốn quan trường. Người đọc dường như cũng hả hê bõ tức khi ông hạ câu thơ “Vừa chửi vừa la cũng đắt hàng”. Sống lâu và sống sang là nội dung của hai lời chúc đầu. Nhưng qua hai lời chúc ấy lại thấy tất cả sự nhếch nhác, bệ rạc của bọn người này. Đã thế nhà thơ còn bồi thêm cho chúng những cú đòn ê ẩm liên tiếp. Nếu như hai lời chúc đầu là chúc sống lâu và sống sang thì hai khổ thơ cuối cùng chúc nhau “cái sự giàu” và “sự lắm con”.
“Nó lại mừng nhau cái sự giàu.
Trăm ngàn vạn mớ để vào đâu?”
“... Nó lại mừng nhau sự lắm con
Sinh năm đề bảy được vuông tròn”
Thái độ châm biếm của nhà thơ thể hiện ngay ở việc lặp lại các cụm từ “nó
lại, “cái sự giàu” và “sự lắm con”. Cách diễn đạt theo kiểu ngoa ngôn như “trăm ngàn vạn mớ” “sinh năm đẻ bảy” cũng là nhằm thể hiện thái độ mỉa mai, giễu cợt về sự ô hợp, lộn xộn của lũ người hợm của. Và cùng như hai khô thơ trên, cứ sau mỗi lời bọn chúng chúc nhau, Tú Xương lại nêu lời bình luận của chính mình. Qua những lời bình luận ấy mà nhà thư thể hiện rõ hơn thái độ và tình cảm của ông. Không hiểu sao đọc những lời dự đoán của nhà thơ về bọn đông con, lắm của, nào là “Phen này ắt hẳn gà ăn bạc - Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu” hoặc “Phố phường chật hẹp người đông đúc - Bồng bế nhau lên nó ở non”, người đọc chỉ thấy buồn cười về một hiện thực nhố nhăng, một hiện thực đậm màu hài hước.
Năm mới chúc nhau là một trong những bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho khuynh hướng và nguồn mạch châm biếm trào phúng của nhà thơ Trần Tế Xương. Đó là những lời “chúc Tết” hết sức độc đáo dưới một hình thức cũng hết sức độc đáo: chúc mà thực ra là chửi, là châm hiếm. Tuy là chửi mà vẫn thành thơ, và lại là thơ hay. Bài thơ mang lại cho bạn đọc một tình cảm hả hê, sung sướng, bõ hờn, bõ tức. Nó cũng gợi lên nhiều cảm hứng khiến người đọc dễ “nhại” và muốn “nhại” theo cái giọng điệu trào phúng châm biếm của ông mỗi khi gặp cảnh chướng tai gai mắt ở đời. Chẳng thế mà có người đã “bắt chước” làm thêm mấy câu thơ nối tiếp vào bài thơ trên, đọc lên nghe chẳng khác gì của chính nhà thơ:
“Bắt chước ai ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết cả trên đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.”
Đấy chính là bằng chứng hùng hồn về sức sống của hài thơ.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
Xuyên suốt bài thơ là cái nhìn mỉa mai của ông Tú dành cho chúng “nó” đầy thẳng thắn, không có một chí e dè, kiêng nể. Lối châm biếm, giễu cợt này đã gióng một hồi chuông cảnh tỉnh, phê phán thái độ của bọn quan lại và thể hiện khao khát tột cùng: làm sao để cuộc đời được tốt đẹp hơn? Không chỉ “Năm mới chúc nhau”, chúng ta còn nhận ra thái độ ấy trong các bài thơ khác của Tú Xương nữa như: Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương, Phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương.