download Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11 File Doc

Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11

 File Doc

Download Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11 - Đề thi, đề kiểm tra giữa kì môn Ngữ văn

Nguyễn Trường Giang  cập nhật: 04/02/2020

Nhằm hỗ trợ cho quá trình ôn tập và củng cố kiến thức trước kì thi giữa học kì 2 sắp tới, Taimienphi.vn giới thiệu đến các em học sinh bộ Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11 mới nhất. Thông qua quá trình luyện tập với đề thi, các em sẽ tích lũy thêm được kinh nghiệm, kĩ năng làm bài hữu ích cho mình.

de thi giua hoc ki 2 mon ngu van lop 11

Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11

1. Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11 số 1:

* Phần đề thi:

I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

Trang Tử nói: "Gà rừng đi mười bước mới nhặt được một hạt thức ăn, đi trăm bước mới uống được một ngụm nước. Nhưng chúng không mong cầu được sống trong lồng". Chúng ta có giống được những con gà rừng không? Nếu chúng ta vì ưa thích thóc gạo bày sẵn mà chịu chui vào chiếc lồng. Rồi từ sau những song tre đó, chúng ta đòi trả tự do?

Từ xúc cơm, xếp quần áo, sách vở, đến chọn trường, chọn nghề, tìm việc, kiếm sống, chọn chồng chọn vợ, chọn tương lai... Chúng ta sẽ quá quen với việc được sắp sẵn. Chúng ta ưa làm việc đã được người khác lên kế hoạch hơn là tự mình vạch ra. Chúng ta chuộng thói quen hơn sáng tạo. Chúng ta chỉ vui khi có người tâng bốc, chỉ hết buồn nếu có người an ủi vuốt ve. Chúng ta thậm chí không muốn tự phân biệt sai đúng trừ khi có người làm thay. Chúng ta không thể làm chủ đời mình. Cứ như vậy, chúng ta đánh mất bản năng của gà rừng và biến thành con chim trong lồng lúc nào không biết nữa. Thậm chí, một con chim trong rất nhiều lớp lồng.

[...] Robert Fulghum từng trở thành tác giả best seller với một cuốn sách có tựa đề thú vị "Tất cả những gì cần phải biết tôi đều được học ở nhà trẻ". Đó là những nguyên tắc sống: chia sẻ, chơi công bằng, không đánh bạn, để đồ đạc vào chỗ cũ, không lấy những gì không phải của mình, dọn dẹp những gì bạn bày ra, nói xin lỗi khi làm tổn thương ai đó, rửa tay trước khi ăn, học một ít, suy nghĩ một ít, vẽ và hát và nhảy múa và chơi và làm việc một ít mỗi ngày, ngủ trưa, có ý thức về những điều kỳ diệu, cây cối và các con vật đều chết - và chúng ta cũng vậy, từ đầu tiên và quan trọng nhất cần phải học: quan sát.

Hãy đếm xem: 100 chữ. Những gì cần phải học chỉ như vậy. Chúng ta được học ở nhà trẻ nhưng đã đánh rơi dần trong quá trình lớn lên. Cũng như khi sinh ra, ta đã có sẵn bản năng độc lập nhưng lại đánh mất nó trong quá trình sống. Không có bản năng độc lập, chúng ta không thể nắm giữ được tự do. Nghĩa là trước khi đòi tự do, bạn phải tìm lại bản năng độc lập của mình.

(Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Phạm Lữ Ân, Nxb Hội nhà văn, 2012, tr 135)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích?

Câu 2. Vấn đề chính được tác giả nêu trong đoạn trích là gì?

Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về câu nói: "Gà rừng đi mười bước mới nhặt được một hạt thức ăn, đi trăm bước mới uống được một ngụm nước. Nhưng chúng không mong cầu được sống trong lồng"?

Câu 4. Trong tất cả các nguyên tắc sống được học ở nhà trẻ mà văn bản nêu ở trên, anh/chị thấy nguyên tắc nào có giá trị với mình nhất? Vì sao?

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Từ vấn đề đặt ra trong ngữ liệu phần Đọc – hiểu, anh/chị hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về tính tự lập của con người trong cuộc sống.

Câu 2 (5,0 điểm)

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân

(Trích Vội vàng, Xuân Diệu – Ngữ Văn 11, Tập 2, NXBGD, Trang 22)

Từ cảm nhận về đoạn thơ trên, anh/chị hãy chỉ ra những quan niệm nhân sinh mới mẻ của nhà thơ Xuân Diệu.

- HẾT-

* Hướng dẫn chấm điểm đề số 1:

Phần I: Đọc-Hiểu

Đọc đoạn trích dẫn trên đề và thực hiện các yêu cầu (3,0 điểm).

Yêu cầu chung:

Câu này kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản, đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức và kĩ năng đọc hiểu một văn bản văn học để làm bài.

Yêu cầu cụ thể:

1Phương thức biểu đạt chính: phương thức nghị luận. (0,5đ)
2. Vấn đề chính trong đoạn trích là: chúng ta đang dần đánh mất bản năng độc lập, chủ động, tự do. (0,5đ)
3. Ý nghĩa câu nói: Con người phải rất vất vất vả để sinh tồn, nhưng đó là sự sinh tồn trong tự do. Đó là một cuộc sống đáng sống hơn sống trong an nhàn đầy đủ nhưng thụ động, mất tự do. (1,0đ)
4. Thí sinh nêu được ít nhất một nguyên tắc sống có giá trị với bản thân (như tự lập, hoà đồng, chia sẻ, yêu thương...) và giải thích lí do vì sao. Có thể có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng về cơ bản, thí sinh trả lời được tác động tích cực của nguyên tắc sống đó. (1,0đ)

Phần II

Câu 1: Viết đoạn nghị luận trình bày suy nghĩ của mình về tính tự lập của con người trong cuộc sống (2,0 điểm).

Yêu cầu chung:

- Yêu cầu về kĩ năng: HS biết viết đoạn nghị luận xã hội, có dung lượng khoảng 200 chữ, biết triển khai luận điểm, diễn đạt mạch lạc
- Yêu cầu về nội dung: Bài làm có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật, đảm bảo các nội dung chính sau:

Yêu cầu cụ thể:

1. Giải thích ý kiến: (0,5đ)

- Nghĩa đen: Tự lập là khả năng tự đứng vững và không cần sự giúp đỡ của người khác.
- Nghĩa bóng: Tự lập là cách sống không dựa dẫm vào người khác, biết dùng tài năng và bản lĩnh cá nhân để làm chủ cuộc sống của mình.
=> Tự lập là một trong những đức tính nhân bản trong tiến trình hình thành nhân cách của một con người. Sống tự lập luôn cần tới khả năng tự chủ để vươn tới sự tự do đích thực là không bị nô lệ cho bản năng, cho hoàn cảnh, cho bất cứ chủ thể nào. Đối lập với tự lập là sống dựa dẫm, ỷ lại vào người khác, không tự mình giải quyết các công việc dù lớn hay nhỏ

2. Bàn luận: (1,0đ).

- Tự lập thể hiện ở sự tự tin, bản lĩnh cá nhân, dám đương đầu với những khó khăn, thử thách, ý chí nỗ lực phấn đấu vươn lên trong học tập; tự mình giải quyết mọi vấn đề trong khả năng của mình mà không dựa dẫm, phụ thuộc vào người khác.
- Khi bạn biết sống tự lập và có cuộc sống tự lập, ấy là điều kiện tốt đẹp cần thiết để bạn rèn luyện nhân cách cá nhân. Cuộc sống tự lập mang lại sự tự tin, khuyến khích con người phát huy năng lực cá nhân, phát triển khả năng tư duy - sáng tạo.
- Tự lập là một phẩm chất để khẳng định nhân cách, bản lĩnh và khả năng của một con người. Chỉ biết dựa dẫm vào người khác sẽ trở thành một gánh nặng cho người thân và cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa. Những người không có tính tự lập, cứ dựa vào người khác thì khó có được thành công thật sự. Nếu không có tính tự lập,con người sẽ dễ bị vấp ngã, thất bại và dễ có những hành động nông nỗi, thiếu kiềm chế.
- Tự lập không có nghĩa là tự tách mình ra khỏi cộng đồng. Có những việc chúng ta phải biết đoàn kết và dựa vào đồng loại để tạo nên sức mạnh tổng hợp.

3. Bài học nhận thức và hành động: (0,5đ)

- Tính tự lập không chỉ là phẩm chất mà còn là kỹ năng sống cần thiết đối với mỗi người. Tự lập không phải cô lập, tránh sự giúp đỡ chân thành, đúng đắn từ mọi người xung quanh khi cần thiết.
- Mỗi người cần có ý thức rèn luyện và tạo thói quen tự lập cho mình bắt đầu từ những việc nhỏ nhặt hàng ngày để trở nên hoàn thiện hơn. Phê phán những người không có tính tự lập, dựa dẫm, ỷ lại, trông chờ vào người khác, sống bám vào người khác 

Câu 2: Cảm nhận về đoạn thơ Vội vàng, chỉ ra quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu. (5,0 điểm)

Yêu cầu chung:

- Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học, đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về tác phẩm văn học, lí luận văn học, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng cảm thụ văn chương để làm bài..

- Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng, không được thoát li văn bản tác phẩm.

Yêu cầu cụ thể:

1. Vài nét về tác giả, tác phẩm: (0,5đ).

+ Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ. Ông được mệnh danh là "ông hoàng của thi ca tình yêu". Trước cách mạng, với hai tập "Thơ Thơ" và "Gửi hương cho gió", Xuân Diệu đã chính thức trờ thành "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" (Hoài Thanh)
+ Bài thơ "Vội Vàng" nằm trong tập "Thơ Thơ" là bài thơ thể hiện tập trung sở trường của Xuân Diệu trong việc bộc lộ cái tôi và cách cảm nhận thiên nhiên, sự sống. Cả bài thơ thể hiện một nhân sinh quan mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Tác phẩm để lại dấu ấn về nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là 13 dòng thơ đầu.

2. Cảm nhận về đoạn thơ (3,0đ)

* Nội dung (2,0đ)

- Những khát vọng mãnh liệt và táo bạo của thi nhân (4 dòng đầu):

+ Điệp ngữ "tôi muốn" được nhắc lại hai lần cùng với đó là hai động từ mạnh "tắt, buộc" đã làm nổi bật khao khát của nhà thơ. Đó là khao khát "tăt nắng, buộc gió" để giữ lại màu hoa "cho màu đừng nhạt mất", để giữ lại sắc hương "cho hương đừng bay đi".
+ Đó là khát vọng chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để buộc hương hoa tươi thắm mãi bên đời. Ngông cuồng hơn cả là nhà thơ muốn vũ trụ ngừng quay, thời gian dừng lại để thi nhân tận hưởng được những phút giây tuổi trẻ của đời mình

- Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp xuân tươi phơi phới, đầy tình tứ ở những cảnh vật thiên nhiên quen thuộc quanh ta (7 dòng tiếp):
+ Cảnh vật đang vào độ thanh tân, diễm lệ. Bức tranh hội tụ đầy đủ hương thơm, ánh sáng và màu sắc, âm thanh. Thiên nhiên hiện lên đều có đôi, có cặp: "Ong bướm - tuần tháng mật"; "Hoa - đồng nội xanh rì"; "lá - cành tơ"; "yến anh - khúc tình si";...
+ Thiên nhiên như một bữa tiệc trần gian đầy những thực đơn quyến rũ: Ở đó có cảnh ong đưa và bướm lượn, tình tứ ngọt ngào như "tuần tháng mật". Màu hoa trở nên thắm sắc ngát hương hơn "giữa đồng nội xanh rì". Cây cối nảy lộc đâm chồi tạo nên những "cành tơ" với những chiếc lá tươi non phất phơ tình tứ. Điểm vào phong cảnh ấy là tiếng hót đắm say của loài chim yến anh đã tạo nên "khúc tình si" say đắm lòng người.
- Ánh sáng buổi sớm mai như phát ra từ cặp mắt đẹp vô cùng của người thiếu nữ mắt chớp chớp hàng mi rồi bừng nở ra muôn vàn hào quang. Tháng giêng thanh tân, diễm lệ, đầy ánh sáng, màu sắc, âm thanh và hương thơm trở thành "cặp môi gần" rất "ngon, ngọt" của người tình nhân...
=> Tâm hồn khát sống, khát yêu, tận hiến, tận hưởng và khát khao giao cảm mãnh liệt

- Tâm trạng của nhân vật trữ tình (2 dòng cuối):

+ Dấu chấm ở giữa câu đã phân tách nhà thơ thành hai nửa: nửa sung sướng và nửa vội vàng. Tâm trạng "sung sướng" là tâm trạng: hạnh phúc, lạc quan, yêu đời, tươi vui đón nhận cuộc sống bằng tình cảm trìu mến, thiết tha gắn bó. Còn "vội vàng" là tâm trạng tiếc nuối bởi nhà thơ sợ tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới. Vì thế dù đang sống trong mùa xuân nhưng thi nhân đã cảm thấy tiếc nuối mùa xuân ngay khi đang ở trong mùa xuân "Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân".

* Nghệ thuật (1,0đ)

- Thể thơ tự do, sử dụng nhiều điệp ngữ, điệp từ, liệt kê, so sánh ẩn dụ...
- Cái tôi trữ tình được thể hiện bằng giọng điệu say mê; nhịp điệu gấp gáp; chuyển đổi thể thơ linh hoạt; từ ngữ táo bạo... Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay mang đậm phong cách thơ Xuân Diệu.

3. Quan niệm nhân sinh mới mẻ của nhà thơ: (1,0đ).
- Cuộc sống xung quanh mình là một thế giới tràn đầy hương sắc, một thiên đường trên mặt đất mà không phải tìm kiếm ở một thế giới xa xôi trừu tượng nào.
- Trong cõi trần gian, đẹp nhất là con người, đặc biệt là con người ở tuổi trẻ và tình yêu. Vì vậy, Xuân Diệu đã lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp, làm thước đo của cái đẹp.

4. Đánh giá chung (0,5đ)

- Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một giọng thơ lạ, một cách cảm nhận về mùa xuân rất đỗi nồng nàn. Qua đó thấy được lòng yêu đời và khát vọng sống mãnh liệt của thi nhân cùng với những quan niệm nhân sinh mới mẻ. Đúng như nhà phê bình Thế Lữ đã nhận xét "Như một tấm lòng sẵn sàng ân ái, Xuân Diệu dang tay chào đón nhựa sống rào rạt của cuộc đời". 

 

2. Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11 số 2:

* Phần đề thi:

Câu 1: (3 điểm)

Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

(...) Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

(Nguyễn Bính – Tương tư)

1. Nêu thể loại của văn bản.(0,5 điểm)
2. Theo anh (chị), hình ảnh "trầu" - "cau" trong văn bản trên có ý nghĩa gì? (1,0 điểm)
3. Chỉ ra và nêu ý nghĩa của biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ thứ 3. (1,0 điểm)
4. Hoài Thanh cho rằng, trong thơ của Nguyễn Bính có "hồn xưa của đất nước". Qua văn bản trên, anh (chị) có đồng ý với nhận xét đó không? Vì sao? (0,5 điểm)

Câu 2: (7 điểm)

Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu. Qua đó, hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị) để những bạn thanh niên đang buồn chán nhận ra rằng cuộc sống thật đáng yêu, đáng sống.

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. (...)

(Xuân Diệu - Vội vàng)

* Hướng dẫn chấm điểm đề số 2:

Câu 1: (3 điểm)

1. Văn bản thuộc thể thơ lục bát.
2. Hình ảnh "trầu – cau" thể hiện ước muốn được chung đôi, sánh duyên với nhau.

3.
- Biện pháp hoán dụ
+ "Thôn Đoài": người thôn Đoài.
+ "Thôn Đông": người thôn Đông.
- Chàng trai sử dụng cách nói bóng gió để bày tỏ nỗi nhớ mong.

4. "Hồn xưa của đất nước" thể hiện ở thể thơ lục bát truyền thống, hình ảnh trầu cau quen thuộc trong ca dao về tình yêu đôi lứa; vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân lao động trong tình yêu...

Câu 2: (7 điểm)

1. Yêu cầu về kĩ năng:

Biết cách làm bài văn nghị luận văn học kết hợp với nghị luận xã hội. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

2. Yêu cầu về kiến thức:

Trên cơ sở hiểu biết về tác giả, tác phẩm, học sinh phân tích sâu sắc để làm sáng tỏ nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. Từ đó, bàn luận về giá trị, ý nghĩa, vẻ đẹp của cuộc sống. Điều quan trọng để xác định chất lượng bài làm là ở chiều sâu của sự cảm nhận, của lí lẽ phân tích chứ không phải ở số lượng ý.

Nội dung chính cần thể hiện:

a) Mở bài:

Nêu vấn đề nghị luận: Giới thiệu tác giả Xuân Diệu, tác phẩm Vội vàng, đoạn thơ cần phân tích. Từ đó, liên hệ thực tế: cuộc sống tươi đẹp, đáng yêu và đáng sống.

b) Thân bài

- Nêu xuất xứ của bài thơ, vị trí và nội dung của đoạn trích.
- Phân tích đoạn thơ:
- Nội dung:
+ Tình yêu cuộc sống mãnh liệt của Xuân Diệu thể hiện qua ước muốn "tắt nắng, buộc gió", vui sướng khám phá vẻ đẹp cuộc sống, vội vàng tận hưởng...
+ Quan điểm thẩm mĩ mới mẻ của Xuân Diệu.
- Nghệ thuật: Phép điệp, liệt kê, thể thơ tự do, giọng điệu sôi nổi...
- Liên hệ vấn đề xã hội:
+ Biểu hiện của vẻ đẹp, giá trị, ý nghĩa của cuộc sống từ những điều bình dị, thân thương.
+ Thanh niên cần có lối sống đẹp, có lý tưởng, yêu đời, yêu cuộc sống, cống hiến tài đức để tô đẹp cho đời.
+ Phê phán những thanh niên dễ nản lòng, buông xuôi trước khó khăn, thử thách trong cuộc sống.

c) Kết bài: Nhận xét, đánh giá chung về vấn đề nghị luận

Thang điểm

  • 7 đ: nắm vững vấn đề, trình bày bài viết theo từng luận điểm rõ ràng, triển khai sâu sắc luận điểm trọng tâm, lập luận logic, lý lẽ thuyết phục, hành văn tốt, không mắc lỗi chính tả.
  • 5 - 6 đ: Hiểu vấn đề, trình bày bài viết theo từng luận điểm, lập luận và lý lẽ phù hợp với vấn đề nghị luận, hành văn mắc một số lỗi diễn đạt, chính tả.
  • 3 - 4 đ: Triển khai vấn đề nghị luận còn sơ sài, bố cục không rõ ràng, mắc một số lỗi diễn đạt, chính tả.
  • 1 - 2 đ: Bài viết quá sơ sài.
  • 0 đ: Bài làm lạc đề.

 

3. Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11 số 3:

* Phần đề thi:

Câu 1 (3 điểm) Đọc kĩ văn bản sau và trả lời câu hỏi:

Chúng ta đang sống trong một thế giới số, nơi mọi hoạt động từ những sinh hoạt thường ngày đến những sự kiện đặc biệt, từ công việc đến vui chơi giải trí, chúng ta đều tự gắn chặt với thế giới số.
F.A (Forever Alone) là một khái niệm ám chỉ những người hướng nội, ít hoặc không có bạn bè, thích tận hưởng cảm giác cô đơn một mình.

Bởi vì rất dễ hiểu, tự thoả hiệp với bản thân bao giờ cũng dễ hơn thoả hiệp với những người khác. Biểu hiện của những người F.A là luôn kêu ca về tình trạng độc thân của mình nhưng lại luôn gắn chặt cuộc sống với môi trường “ảo” internet, bất kể ngày hay đêm, bất kể ngày thường hay lễ tết.

Cuộc sống của chúng ta đang diễn ra trên Facebook, Twitter, Youtube… chúng ta đang tự cô lập mình với thế giới thực, chúng ta đang tự biến mình thành F.A.

Trung bình, hằng ngày mỗi người Việt Nam tiêu tốn 2h đồng hồ vào mạng xã hội, nhưng có lẽ phải nhiều hơn như vậy. Tôi đã từng tự thách thức mình không sử dụng điện thoại, máy tính, internet trong một tuần, và tôi thất bại ở ngày thứ năm. Dường như tôi đã bị phụ thuộc quá nhiều vào những tin nhắn, vào những cuộc gọi, vào những cập nhật về bạn bè, xã hội xung quanh tôi. Tôi “phát điên” khi không biết mọi việc đang diễn ra xung quanh mình như thế nào, ai cần đang cần liên lạc với mình và hơn hết, tôi có cảm giác mình đang bị ‘lãng quên’ khi tôi tách mình ra khỏi thế giới số. Còn bạn thì sao?

Một người bạn Nhật Bản nói với tôi: “Ở Nhật Bản, hầu hết mọi người giao tiếp qua smartphone, từ văn phòng xuống tàu điện ngầm, và thậm chí là ở trong nhà”. Việc này có vẻ như không chỉ xảy ra ở riêng Nhật Bản.

Ở Việt Nam hiện nay, vợ gọi chồng xuống ăn cơm qua Facebook, hai người hẹn nhau đi ăn tối, mỗi người dán mắt vào một cái smartphone, bạn bè hội họp, lại mỗi người ôm khư khư một cái smartphone.

Chúng ta mất dần nhu cầu giao tiếp thực tế. Nếu trẻ con lớn lên trong một môi trường mà nơi đó người ta không có nhu cầu giao tiếp thực tế, chúng sẽ trở thành những người lớn không còn khả năng giao tiếp thực tế.

Điều này đang xảy ra. Càng ngày chúng ta càng giấu mình đằng sau bàn phím và tự đánh mất khả năng giao tiếp của mình. Hằng ngày, thiên hạ kết bạn, tán chuyện với nhau qua các trang mạng xã hội, nhưng lại không thể nói chuyện khi gặp mặt nhau. […]

Khái niệm F.A đã dịch chuyển từ những người cô đơn sang cả những người có đôi, có cặp. Với tình trạng hai người hẹn hò nhau mà mỗi người tự nói chuyện với cái smartphone của mình thì thực ra cũng chẳng khác nào F.A

Nguy hiểm hơn nữa là khi chính người lớn chúng ta làm lây lan tình trạng này sang cho trẻ em. Khi các bậc phụ huynh còn đang mải mê với thế giới riêng của mình và bỏ mặc con cái với những chiếc máy tính bảng thì hoàn toàn dễ hiểu khi con trẻ cũng tự thu mình vào thế giới riêng của chúng. Và điều sau đây hoàn toàn có thể xảy ra: Một thế hệ F.A mới sẽ ra đời thừa kế lại chính hội chứng F.A của cha mẹ chúng.

Vì vậy, các thanh niên hãy thôi phàn nàn hay đề cập đến tình trạng F.A của mình. Gập máy tính lại, tắt điện thoại đi. Hãy giao tiếp nhiều hơn với xã hội và tận hưởng cuộc sống thực tại. Các bạn sẽ hết F.A.

(Dẫn theo http://www.vnexpress.net)

1. Văn bản trên đề cập đến vấn đề gì trong xã hội hiện đại? Đặt tên cho văn bản.
2. Xác định các phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản?
3. Người viết cho rằng: “Gập máy tính lại, tắt điện thoại đi. Hãy giao tiếp nhiều hơn với xã hội và tận hưởng cuộc sống thực tại. Các bạn sẽ hết F.A”. Ý kiến của anh chị?

Câu 2 (7 điểm): Cái mới của thơ Xuân Diệu qua đoạn trích:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

(Trích Vội Vàng - Xuân Diệu)

* Hướng dẫn chấm điểm đề số 3:

 Câu 1 (3 điểm)

1. (1,0 điểm)

- Văn bản trên đề cập đến vấn đề:
+ Trong xã hội hiện đại, tình trạng lạm dụng công nghệ khiến con người ngày càng trở nên cô đơn, mất đi nhu cầu giao tiếp trong cuộc sống thực.
+ Có thể đặt tên cho văn bản dựa trên nội dung được trình bày:
- Công nghệ số và tình trạng F.A của con người
+ Những vấn đề nảy sinh trong thời đại công nghệ

2. Xác định các phương thức biểu đạt sử dụng trong văn bản: (0,5 điểm)
- Thuyết minh
- Nghị luận

3. Người viết cho rằng: “Gập máy tính lại, tắt điện thoại đi. Hãy giao tiếp nhiều hơn với xã hội và tận hưởng cuộc sống thực tại. Các bạn sẽ hết F.A”. HS có thể có các ý kiến khác nhau: (1,5 điểm)
- Đồng ý vì: cuộc sống thực sinh động, hấp dẫn hơn thế giới ảo
- Phản đối vì: xã hội hiện đại không thể thiếu công nghệ. Phát minh công nghệ nâng cao chất lượng sống
- Phân tích lí giải cụ thể hơn, cuộc sống hiện đại cần công nghệ nhưng không nên lạm dụng mà cần có thời gian và cách thức sử dụng hợp lí, hài hòa.
Khi học sinh đưa ý kiến và bảo vệ được ý kiến thì vẫn cho điểm kĩ năng (0,5đ) nhưng chỉ ý kiến 3 mới cho điểm tối đa.

Câu 2 (7,0 điểm)

I. Giới thiệu về Xuân Diệu, bài thơ Vội Vàng và vấn đề cần nghị luận: (0,5 điểm)
- Cái mới của thơ Xuân Diệu qua đoạn thơ thứ hai trong Vội Vàng

II. Giải quyết vấn đề
- Giải thích sơ lược: “Cái mới trong thơ”: Những cách tân trong thơ trên hai phương diện nội dung và hình thức (0,5 điểm)
1. Cái nhìn mới về thế giới: (1,5 điểm)
- Người xưa chỉ nhìn thiên nhiên để “xúc cảnh sinh tình”
- Thế giới mùa xuân không mới nhưng Xuân Diệu đã phát hiện mùa xuân với cái nhìn mới: “Cái nhìn của Xuân Diệu về thiên nhiên là cái nhìn tình tứ nên thiên nhiên thường hiện ra với vẻ đẹp xuân tình” (SGV Ngữ văn 11 Nâng cao, NXB Giáo dục 2007), thế giới thiên nhiên quen thuộc trở nên mới lại, hấp dẫn, mời gọi.

2. Cảm nhận mới về thế giới (1,5 điểm)
- Thơ xưa chủ yếu cảm nhận thế giới bằng thị giác, thính giác, từ đó gợi hứng làm thơ
+ Xuân Diệu cảm nhận thế giới mùa xuân khi “thức nhọn giác quan” thị giác, thính
+ giác, vị giác, khứu giác… khiến cho mùa xuân hiện lên tràn ngập sắc màu, thanh âm, tràn trề ánh sáng, hương thơm: “của ong bướm này đây tuần tháng mật… lá của cành tơ phơ phất… Yến anh, khúc tình si… tháng giêng ngon như một cặp môi gần”…

3. Quan điểm thẩm mĩ mới (1,0 điểm)
- Thơ cổ lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp của con người
- Xuân Diệu lấy sự sống của con người giữa tuổi trẻ và tình yêu làm chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp trên thế gian này: “Ánh sáng chớp hàng mi, tháng giêng ngon như một cặp môi gần…”.

4. Nghệ thuật thơ có sự cách tân (1,0 điểm)
- Hình ảnh táo bạo: “Ánh sáng chớp hàng mi, tháng giêng ngon như một cặp môi gần…”.
- Thể thơ tự do với những câu thơ vắt dòng, cách biểu đạt táo bạo tạo nhịp thơ hăm hở, sôi trào mãnh liệt

III. Kết thúc vấn đề: (0,5 điểm)

- Đoạn thơ hay trong bài thơ, bày tỏ tình yêu say đắm của Xuân Diệu với cuộc đời, con người
- Cái mới mà Xuân Diệu mang đến qua những vần thơ của mình đã góp phần thay đổi hẳn diện mạo của thơ ca dân tộc.

Để có quá trình ôn tập, chuẩn bị tốt nhất cho kì thi giữa học kì 2 năm học 2019 - 2020 sắp tới, bên cạnh Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11, các em học sinh có thể tham khảo thêm bộ Đề thi giữa học kì 2 môn Tiếng Anh lớp 11, Đề thi giữa học kì 2 môn Toán lớp 11, Đề thi giữa học kì 2 môn Lịch sử lớp 11 đã được Taimienphi.vn tuyển chọn và đăng tải.


Liên kết tải về - [100 KB]

Bấm vào [Link File] để tải về phần mềm, hoặc tải phiên bản phù hợp phía dưới

Liên kết dự phòng:
Các phiên bản khác



Bài viết liên quan

 Thông tin giới thiệu, hướng dẫn sử dụng phần mềm Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11 được biên soạn nhằm giúp bạn có thêm thông tin tham khảo, việc daoloat đề thi giữa học kì 2 môn ngữ văn lớp 11 là hoàn toàn miễn phí, bạn có thể chi tiết nội dung tại mục "Điều khoản".

Các phiên bảnHướng dẫn

   Tải về

Đề thi giữa học kì 2 môn Ngữ văn lớp 11 File Doc

Phần mềm Liên quan & Tương tự
Top download
  1. Đang tổng hợp...
Bấm vào file dưới
Để cài phần mềm