Đề bài: Phân tích, đánh giá Hương Sơn phong cảnh

Bài văn phân tích, đánh giá Hương Sơn phong cảnh
I. Dàn ý Phân tích, đánh giá Hương Sơn phong cảnh
1. Mở bài:
- Giới thiệu về “Hương Sơn phong cảnh”
+ Đề tài: Miêu tả cảnh đẹp ở Hương Sơn và cảm xúc của tác giả khi ngắm nhìn phong cảnh nơi đây.
+ Thể loại: Hát nói
- Tác giả: Chu Mạnh Trinh là người tài hoa, giỏi kiến trúc, thi họa.
2. Thân bài:
a) Nội dung:
* Giới thiệu về toàn cảnh Hương Sơn:
- Câu thơ đầu: ngắn, đặc biệt nửa thực nửa ảo -> Gợi mở ra không gian rộng lớn, thấm đẫm thiền vị thanh tịnh, bồng bềnh.
- Thái độ:
+ “Ao ước bấy lâu nay”: mong đợi đã lâu
+ Thán từ “kìa”: ngạc nhiên, sững sờ, vô cùng thích thú.
- Câu hỏi tu từ: “Đệ nhất động hỏi đây có phải?” -> Bộc lộ sự xúc động, bất ngờ trước cảnh non nước hữu tình
=> Cảnh vật được quan sát từ xa đến gần, cho người đọc cảm giác Hương Sơn là một quần thể không gian nhiều tầng, cao thấp trập trùng, non nước mây trời.
* Cảnh đẹp ở Hương Sơn:
- Không khí thần tiên, thoát tục:
+ Hình ảnh: rừng mai, khen yến, chim, cá
+ Âm thanh: thỏ thẻ, kinh Phật, tiếng chày kình
+ Nghệ thuật: nhân hóa, từ láy,...
-> Cảnh vật được phác họa giàu sức gợi cảm, thấm đẫm chất thiền. Chim, cá như trở thành tín đồ Phật giáo. “Khách tang hải” từ giấc mộng “tỉnh” dậy, cởi bỏ bụi trần, phiền lụy để hòa nhập vào không khí thiêng liêng.
=> Cảnh và người hòa vào làm một, Hương Sơn biến tất cả trở nên thanh khiết và thánh thiện.
- Hình ảnh: suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, hang Phật Tích, động Tuyết Quynh
-> Nghệ thuật liệt kê, điệp từ “này” tạo ra một quần thể độc đáo, mang không khí thiêng liêng u tịch.
- Hành động:
+ Trông lên: đá ngũ sắc phản chiếu ánh sáng lung linh so sánh với gấm dệt.
+ Nhìn xuống: bóng trăng soi mình vào hang sâu đầy huyền ảo.
- Lối đi: gập ghềnh uốn thang mây -> tạo sự trắc trở, độc đáo của lối kiến trúc nơi đây.
- Chừng, còn, hay: là các từ thường dùng để hỏi, tạo ra câu hỏi tu từ dùng để diễn tả nỗi hoài niệm với cảnh sắc thiên nhiên đất nước sẽ đẹp hơn khi con người biết trân trọng, giữ gìn.
=> Kết hợp màu sắc, không gian, cảnh vật được quan sát gần hơn cùng với các biện pháp nghệ thuật đã vẽ nên bức tranh Hương Sơn vừa hùng vĩ, nhiều màu, vừa mang màu sắc hiện thực có chất lãng mạn.
* Cảm xúc của tác giả:
- Hình ảnh: tràng hạt, Nam mô Phật, cửa từ bi, công đức,...
-> Không khí Phật giáo đậm đà, qua đó tự thưởng thức cái đẹp và suy tư về đất nước.
- Phụ từ “càng”: nhấn mạnh thái độ ngợi ca, trân trọng cảnh sắc Hương Sơn của tác giả.
=> Khẳng định sức cuốn hút của Hương Sơn, tâm hồn yêu cái đẹp, yêu thiên nhiên đất nước mình của tác giả.
b) Nghệ thuật:
- Thể loại hát nói đặc biệt, mang giọng điệu nhịp nhàng, trầm lắng mà da diết.
- Ngôn từ giản đơn, chắt lọc, có sự kết hợp khéo léo giữa các loại từ.
- Hệ thống từ láy giàu tính tượng hình, tượng thanh.
3. Kết bài:
- Khái quát lại giá trị của tác phẩm và khẳng định tài năng của tác giả.
II. Bài văn mẫu Phân tích, đánh giá Hương Sơn phong cảnh
1. Phân tích, đánh giá Hương Sơn phong cảnh ngắn gọn - mẫu số 1:
Danh lam thắng cảnh trên nước Việt nhiều vô số kể, một trong số đó là Hương Sơn - nơi non nước hữu tình, có động Hương Tích được coi là “Nam thiên đệ nhất động”. Chu Mạnh Trinh - một tài tử sống dưới thời nhà Nguyễn đã được giao nhiệm vụ trùng tu chùa Thiên Trù ở đây. Trong thời gian đó, ông đã sáng tác ra “Hương Sơn phong cảnh” - áng thơ kiệt tác ca ngợi cảnh vật như chốn bồng lai tiên cảnh.
“Bầu trời, cảnh bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây,
Đệ nhất động hỏi đây có phải?”
Câu thơ đầu chỉ vỏn vẹn bốn chữ nhưng đã khái quát được khung cảnh Hương Sơn. Đây không phải là nơi có thật trên thế gian mà là nơi ở của tiên bụt, là chốn Phật giáo linh thiêng, trang nghiêm, mờ ảo. Tác giả vui sướng, hạnh phúc khi được đứng ở nơi đây để ngắm nhìn vạn vật cho thỏa cái thú chu du, ham mê kiến trúc, cảnh đẹp của mình. Tuy xung quanh chỗ ông đứng chỉ thấy “non non, nước nước, mây mây”, cũng giống như cảnh ở nơi cao khác nhưng khi đứng tại Hương Sơn, sương khói huyền ảo lại mang cho con người cảm giác an bình, yên tĩnh, thanh thản. Bởi nơi đây là thánh địa Phật giáo. Quả thực rất xứng với danh xưng “Nam thiên đệ nhất động” được phong tặng.
“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
Vẳng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”
Bốn câu thơ mang đậm dư vị Phật giáo, cho người đọc cảm thấy như đang lạc bước vào Hương Sơn. Ngoài cảnh “rừng mai”, “khe Yến” tuyệt đẹp, các loài vật ở trên núi dường như cũng có linh tính hơn bình thường. Chúng được nhân hóa như con người, biết cúng dường, nghe kinh. Từ láy “thỏ thẻ”, “lững lờ” cũng làm cho ta cảm nhận được sự thư thái, chậm rãi, nhẹ nhàng khi bước vào không gian nơi đây. Cảnh vật cứ nửa thực nửa mơ hồ khiến người “khách tang hải” thực khó phân biệt, ngỡ như mình được lạc bước vào trong chốn thần tiên. Thế nhưng “một tiếng chày kình” hiện lên văng vẳng bên tai khiến người lữ khách biết được rằng đây là thực tại chứ không phải giấc mơ. Sự khẳng định đó càng khiến cho tâm hồn ông thấy thư thái khi tìm được niềm an yên.
“Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây”
Những di tích nổi tiếng của Hương Sơn đã được Chu Mạnh Trinh liệt kê ra như “suối Giải Oan”, “chùa Cửa Võng”, “hang Phật Tích”, “động Tuyết Quynh”. Đứng trước những cảnh đẹp ấy, tác giả cảm thấy thiên nhiên thật kì diệu. Tạo hóa đã ban cho con người những cảnh đẹp không tưởng, sắp xếp hài hòa, bố cục hợp lí cứ như được ai đó “khéo họa hình”. Những dòng thơ tiếp theo, tác giả đã miêu tả kĩ hơn về đá, hang, lối đi trên Hương Sơn: “Đá ngũ sắc” long lanh, huyền ảo, cửa hang được ánh trăng soi vào tạo ra độ tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, khiến cho lòng hang thăm thẳm sâu không thấy đáy, lối đi gập ghềnh, uốn lượn mờ ảo trong làn mây. Đi giữa cảnh đẹp, lòng tác giả vui mừng, hân hoan vì tự hào về quê hương đất nước.
“Chừng giang sơn còn đợi ai đây
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt
Lần tràng niệm “Nam mô Phật”
Cửa từ bi công đức biết là bao
Càng trông phong cảnh càng yêu!”
Câu hỏi tu từ mang nghĩa ca ngợi vẻ đẹp của Hương Sơn phong cảnh như đang chờ đợi mọi người đến thăm thú, ngắm cảnh, cảm nhận chút không khí yên bình nơi cửa Phật. Trong khung cảnh đó, dường như tác giả cũng muốn rũ bỏ hết bụi trần, hướng tấm lòng của mình về Phật pháp. Vạn vật nơi Hương Sơn đều nhẹ nhàng, thuần khiết khiến cho thi nhân ngày càng yêu thích mãi không thôi.
Sử dụng thể loại hát nói, “Hương Sơn phong cảnh” không bị giới hạn bởi câu chữ, giai điệu của tác phẩm cũng nhẹ nhàng, du dương như tiếng kinh cầu chốn cửa Phật. Từ những cảm nhận của tác giả về di tích Hương Sơn, người đọc sau này phần nào thấy được một tâm hồn tài hoa, yêu thiên nhiên kiến trúc sâu sắc.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - Hết bài 1 - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
Ngoài bài mẫu này, em có thể tham khảo thêm các bài phân tích Hương Sơn phong cảnh khác của Taimienphi.vn như: Phân tích vẻ đẹp của phong cảnh Hương Sơn qua bài Hương Sơn phong cảnh; Phân tích bài thơ Bài ca phong cảnh Hương Sơn; Phân tích bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca để thấy được những khía cạnh đặc sắc khác của tác phẩm này nhé!

Bài văn phân tích, đánh giá Hương Sơn phong cảnh
2. Phân tích, đánh giá Hương Sơn phong cảnh - mẫu số 2:
Chu Mạnh Trinh là một vị quan dưới triều nhà Nguyễn. Không chỉ là người có tài văn chương, ông còn là một nhà kiến trúc tài năng, đam mê ngao du, ngắm cảnh. Khi dừng chân tại danh thắng Hương Sơn, Mỹ Đức, ông đã miêu tả lại cảnh đẹp nơi đây và cảm xúc của mình bằng tác phẩm “Hương Sơn phong cảnh”.
“Bầu trời, cảnh bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây,
Đệ nhất động hỏi đây có phải?”
Câu thơ đầu chỉ có duy nhất bốn chữ. Dung lượng ngắn đã tạo nên cảm giác đặc biệt, bí ẩn gợi mở ra không gian rộng lớn, nửa thực nửa ảo, thấm đẫm thiền vị thanh tịnh, bồng bềnh như chốn thần tiên quyến lữ sinh sống. Dưới khung cảnh đó, tác giả đã thể hiện sự ngạc nhiên, sững sờ, thích thú bằng thán từ “kìa” và cụm từ “Ao ước bấy lâu nay”. Cảnh vật được quan sát từ “bầu trời” đến “non non, nước nước, mây mây”, từ xa đến gần, cho người đọc cảm giác Hương Sơn là một quần thể không gian nhiều tầng, cao thấp trập trùng, non nước mây trời. Có thể khẳng định rằng Hương Sơn cực kì xứng đáng với danh xưng “Nam thiên đệ nhất động” do chúa Trịnh Sâm ban tặng.
“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
Vẳng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”
Như để tô đậm thêm không khí tiên cảnh trên đỉnh Hương Sơn, Chu Mạnh Trinh tiếp tục nêu ra những hình ảnh: rừng mai thỏ thẻ, “chim cúng trái”, “khe Yến”, “cá nghe kinh”. Sử dụng những từ láy và biện pháp nhân hóa khiến cho vạn vật xung quanh như có linh tính, chúng như những tín đồ trung thành của Phật giáo, hành động hướng thiện, chân thật, hiền hòa. Khung cảnh yên bình, thơ mộng khiến cho người lữ khách như đang lạc trong chốn thần tiên. Đến tận khi có “tiếng chày kình” vang lên, “khách tang hải” từ giấc mộng “tỉnh” dậy, cởi bỏ bụi trần, phiền lụy để hòa nhập vào không khí thiêng liêng. Đoạn thơ này khiến người đọc cảm thấy như cảnh và người đã hòa vào làm một, Hương Sơn biến tất cả trở nên thanh khiết và thánh thiện.
“Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên ai khéo họa hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây”
Chừng giang sơn còn đợi ai đây
Hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt”
Những danh lam được thi nhân điểm tên ở đây gồm có suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, hang Phật Tích, động Tuyết Quynh. Nghệ thuật liệt kê kết hợp với điệp từ “này” tạo ra một quần thể độc đáo, mang không khí thiêng liêng u tịch. Hai hành động đối lập, tương phản được đưa ra rất thú vị để miêu tả kĩ hơn vẻ đẹp ở xung quanh. Khi hướng tầm mắt lên trên, đá ngũ sắc phản chiếu ánh sáng lung linh như tấm vải gấm dệt. Nhìn xuống dưới động, bóng trăng soi mình vào hang sâu đầy huyền ảo. Lối đi “gập ghềnh uốn thang mây” như muốn phô diễn sự độc đáo của lối kiến trúc nơi đây. Không gian Hương Sơn được mở ra đa chiều với tầm nhìn bao quát, thấy được trọn vẹn sự nguy nga, thơ mộng của cánh vật. Ngoài ra, đoạn thơ còn sử dụng các thứ “chừng”, “còn”, “hay” thường dùng để hỏi, tạo ra câu hỏi tu từ dùng nhằm diễn tả nỗi hoài niệm với cảnh sắc thiên nhiên đất nước cũng khẳng định rằng nơi đây sẽ ngày càng đẹp hơn khi con người biết trân trọng, giữ gìn. Sự kết hợp giữa màu sắc, không gian cùng với các biện pháp nghệ thuật đã vẽ nên bức tranh Hương Sơn vừa hùng vĩ, nhiều màu, vừa mang màu sắc hiện thực có chất lãng mạn.
“Lần tràng niệm “Nam mô Phật”
Cửa từ bi công đức biết là bao
Càng trông phong cảnh càng yêu!”
Ba câu thơ cuối mang không khí Phật giáo đậm đà khi sử dụng các từ “tràng” hạt, “Nam mô Phật”, “cửa từ bi”, “công đức” cho thấy khung cảnh trang trọng, hiền hòa nơi cửa Phật. Tại đây, tác giả đã có cho mình những thưởng thức riêng về cái đẹp và suy tư về đất nước. Phụ từ “càng” đứng đầu câu thơ “Càng trông phong cảnh, càng yêu” nhằm nhấn mạnh thái độ ngợi ca, trân trọng cảnh sắc Hương Sơn của thi nhân. Qua đó, người đọc, người nghe đời sau có thể thấy được tâm hồn yêu cái đẹp, yêu thiên nhiên đất nước mình của Chu Mạnh Trinh.
Tác phẩm “Hương Sơn phong cảnh” sử dụng thể loại hát nói rất đặc biệt. Không giống như thơ, số lượng câu, từ trong hát nói không có giới hạn, vậy nên tác giả đã thỏa sức thể hiện tài năng của mình khi miêu tả phong cảnh trên đỉnh Hương Sơn. Khi nghe hát nói, ta càng cảm nhận được giọng điệu nhịp nhàng, thanh tịnh, trầm lắng mà tha thiết của tác phẩm đem lại. Ngôn ngữ mà tác giả sử dũng cũng đơn giản nhưng được chắt lọc cẩn thận, tỉ mỉ, được kết hợp khéo léo tại ra hiệu quả gợi hình.
Có thể nói rằng Chu Mạnh Trinh là một bậc kì tài. Sự am hiểu, thông thái về kiến trúc, phong cảnh, văn chương của ông đã kết tinh thành “Hương Sơn phong cảnh” một cách hoàn mỹ nhất. Đọc thơ, nghe hát, ta đều như đang được đi lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh không vướng bụi trần, cảm giác như tâm hồn được nhẹ nhàng, thư thái hơn.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
Để phân tích, đánh giá một tác phẩm, các em cần nắm rõ nội dung, nghệ thuật, giá trị và sức ảnh hưởng của tác phẩm đó đối với văn hóa đại chúng ngày nay. Để hiểu thêm về điều này, em có thể tham khảo thêm các bài khác trên Taimienphi.vn ngoài Phân tích, đánh giá Hương Sơn phong cảnh như: Phân tích, đánh giá Nắng đã hanh rồi; Phân tích, đánh giá Thơ duyên nhé!